Saturday, April 13, 2013

Nói mãi mà không nhàm


Nói mãi mà không nhàm
Paul Krugman, nhà kinh tế nổi tiếng, chuyên viết cho tờ New York Times, vừa có một bài viết trên tờ BusinessWeek mang nhan đề “How to Beat a Dead Horse”.
Thành ngữ to beat a dead horse là làm chuyện vô ích, thường chỉ một chuyện đã qua rồi, bàn thêm hay cố gắng thêm chẳng được chi (ví dụ Do you think it's worth sending my manuscript to other publishers or I am just beating a dead horse?) Vì sao nhà kinh tế đoạt giải Nobel lại bày chúng ta beat a dead horse?
Ấy là ông này đang nói về nghề tay trái của ổng – viết báo. Với các đề tài người ta đã bàn nát nước rồi thì làm sao để viết [cho hay, cho hấp dẫn].
Krugman bày: “It kind of helps to use various people as foils”. Foil là một kỹ thuật trong viết tiểu thuyết – dùng một nhân vật để làm nổi bật tính cách của một nhân vật khác. Ông nói thêm cho rõ: “If someone has said something that’s demonstrably at odds with experience or just demonstrably stupid, I use it” (at odds with là trái ngược với; demonstably ở đây là rõ ràng).
Chiêu thứ nhì là “Metaphors, if you can find good ones, are helpful”. Ngay sau đó Krugman cho ví dụ về những ẩn dụ hữu ích: “Confidence fairy” has been a good friend to me. That one just came out of the blue in 2010. Krugman từng đẻ ra và dùng cụm từ “confidence fairy” trong khá nhiều bài (một từ ông cho là đắc ý – a good friend), ý nói đến niềm tin rằng chính quyền càng ít can thiệp, nền kinh tế sẽ càng chóng phục hồi, tức là chỉ cần tin mọi việc sẽ ổn là nó sẽ ổn – một ý tưởng ông này cho là ảo tưởng. To come out of the blue là xuất hiện bất chợt.
Chiêu tiếp theo là “More on the blog than in the column, I follow research”. Ông này vừa viết báo vừa viết blog. Và phát triển cái ý “follow research” ông nói: “I wasn’t thinking much about the importance of having your own currency at first”. Currency ở đây là sự thừa nhận [rộng rãi ý tưởng của ông]. “I learned about that a couple of years into this Don Quixote role—some mixture of Don Quixote and Cassandra”. Tức là khi đóng vai Don Quixote chọc ngoáy vào những vấn đề “cái cối xay” của kinh tế, ổng nghĩ mình cũng đồng thời phải là một Cassandra, là nữ thần chuyên tiên đoán hậu vận một cách chính xác. Kết quả là “This having-been-right thing helps sustain me in pounding on the issues”. Đó, pounding on the issuebeat the dead horse mà vẫn có người nghe nhờ cái “having-been-right thing”.
Chiêu cuối cùng là “In any kind of communications profession, the point is above all to have something to say” – cái này thì rõ rồi, nên thôi, không nói nữa.

Wednesday, April 3, 2013

Búp bê và tiếng Anh


Búp bê và tiếng Anh
Trong tiếng Anh có những câu khó, không phải vì từ khó hay cấu trúc phức tạp mà khó vì cách diễn đạt. Bài báo “Lean in, Barbie” trên tờ The Economist hôm nay có những câu hoàn toàn đúng với nhận xét này.
Ví dụ, câu mở đầu: “Barbie doll prices vary by job, with only a moderate relation to actual salaries”. Đọc vô dễ choáng vì không hiểu nó nói gì cả trong khi từ thì rất dễ.
Búp bê Barbie nổi tiếng thì ai cũng biết rồi. Nhà sản xuất cho ra đời đủ loại, đủ kiểu búp bê, kể cả cho Barbie làm đủ nghề. Búp bê thì giống nhau, chỉ có áo quần bề ngoài và một ít phụ tùng để minh họa cho nghề mà Barbie đang làm thì khác nhau, thế nhưng giá bán mỗi con búp bê như thế lại khác nhau tùy nghề nghiệp Barbie đang khoác vai. Điều lạ là giá bán này không liên quan gì nhiều đến mức lương thật sự mà nghề nghiệp ấy thực lãnh ngoài đời. Cả câu phải diễn giải dài dòng như thế còn dịch như thế nào thì tùy.
Nhưng một khi đã nắm ý chính của tác giả thì các câu sau trở nên dễ: “This can’t simply be explained by the cheap accessories that come with it—why should a miniature plastic laptop be valued so much higher than a chef’s tiny cupcakes?” Nếu vội sẽ không hiểu vì sao lại so sánh giá của “a miniature plastic laptop” với “a chef’s tiny cupcakes”. Đó là bởi miêu tả cô Barbie làm chuyên gia vi tính thì phải cho cô đeo máy tính; còn làm đầu bếp nướng bánh thì phải có bánh trên tay. Cả hai đều là đồ nhựa giả nên giá đâu có chênh lệch bao nhiêu.
Chừng đó thôi nhưng The Economist hay đúng hơn là hai nhà kinh tế cũng rút ra quy luật:  “They conclude that price discrimination is probably at work: sellers exploit parental hopes that a girl playing palaeontologist may grow up to be the real thing, so charge more”. At work là đang phát huy tác dụng. Price discrimination là một khái niệm trong kinh tế học, ấn định giá khác nhau cho các loại khách hàng khác nhau hay tại các thị trường khác nhau mặc dù cùng một sản phẩm hay dịch vụ như nhau (như trong giá vé máy bay chẳng hạn). Hóa ra dân bán Barbie cũng khôn quá.


Sherlock Holmes và tiếng Anh


Sherlock Holmes và tiếng Anh
Để đọc hiểu một bài báo tiếng Anh, điều đầu tiên không phải là tìm cuốn từ điển để bên cạnh – điều đầu tiên là xem thử bài báo nói về lãnh vực gì, rồi tìm hiểu sơ về lãnh vực đó, kèm theo các từ đặc trưng của nó như những cái mốc định hướng cho mình. Chúng ta thử lấy bài “Is Sherlock Holmes in the Public Domain?” trên tờ Slate để minh họa cho nhận định này.
Đây là bài báo nói về chuyện bản quyền, tức một phần của khái niệm sở hữu trí tuệ (intellectual property). Tìm hiểu sơ thì sẽ thấy các intellectual property rights thường bao gồm copyright (bản quyền, quyền tác giả), trademark (nhãn hiệu), patent (pa-tăng, sáng chế), industrial design (kiểu dáng công nghiệp), trade secrets (bí mật kinh doanh)… Riêng với copyright thì thường người ta quy định quyền tác giả sẽ được bảo hộ trong suốt cuộc đời tác giả (ai muốn sử dụng phải trả tiền bản quyền – copyright fees) và sau đó thêm 50 năm nữa. Hết thời hạn này thì tác phẩm sẽ là “của chung” (public domain), ai muốn xài thì cứ thoải mái.
Quay lại, đọc nhan đề bài báo “Is Sherlock Holmes in the Public Domain?” chúng ta biết ngay ý người viết muốn hỏi bản quyền Sherlock Holmes đã hết hạn chưa. Nghe khỏe không? Nếu không làm theo cách trên, các bạn có tra cứu từ public domain (tài sản công cộng) cũng chịu, không biết dịch thế nào cho phải.
Câu trả lời cho thắc mắc hết hạn chưa là chưa rõ. Bài báo đưa ra một dẫn chứng: “Lawyer and Holmes scholar Leslie S. Klinger has sued the estate, which insisted that he pay a fee to them in order to publish a collection of short stories called In the Company of Sherlock Holmes”. Trong câu này có từ estate hơi khó hiểu. Real estate thì ai cũng biết là địa ốc nhưng estate không thôi lại là tài sản, di sản và từ đó có thêm nghĩa (những) người thừa kế di sản (vậy mới có chuyện kiện chứ ai đời đi kiện tài sản).
Mặc dù tất cả tác phẩm nào xuất bản trước năm 1923 ở Mỹ đều đã hết hạn bảo hộ bản quyền, một số tác phẩm của Conan Doyle, cha đẻ nhân vật Sherlock Holmes, được xuất bản sau năm đó nên mới có chuyện tranh cãi. “The Conan Doyle estate is known for aggressively pursuing copyright claims, and most people looking to use the character—including the creators of the TV shows Sherlock and Elementary and the producers of the updated Sherlock Holmes movies—have paid licensing fees”. Chúng ta nay đã biết nghĩa của cụm từ “The Conan Doyle estate”, “pursuing copyright claims”. Một bên đòi tiền bản quyền, một bên kiện nói đã hết thời hạn bảo hộ: “Enough is enough,” Klinger told The New York Times. Nói Enough is enough là bực lắm rồi, kiểu vừa phân hai phải (một vừa hai phải) thôi chứ.
Bài báo nhận định: “And overreaching literary estates haven’t had the best luck lately: James Joyce’s and William Faulkner’s heirs have lately lost fair use lawsuits”. Overreaching ở đây là đòi hỏi quá đáng; fair use cũng là khái niệm trong quyền tác giả, là quyền trích dẫn tác phẩm mà không cần phải xin phép (sử dụng hợp lý).
Và cuối cùng bài báo dùng lời một luật sư để kết luận: “Copyright was intended by its progenitors to be a limited monopoly, not an indefinite monopoly”. Its progenitors là cha đẻ luật bản quyền. Monopoly là độc quyền, nhưng một bên là limited (có giới hạn) một bên là indefinite (vĩnh viễn).

Khủng hoảng và tiếng Anh


Khủng hoảng và tiếng Anh
Cuộc khủng hoảng ở Cyprus có nhiều tình tiết và diễn biến đầy kịch tính và tiếng Anh sử dụng trong các bản tin cũng có nhiều từ thú vị.
Ví dụ ngay trong tít “Cyprus and Troika come to terms on haircut” có ít nhất hai từ đáng chú ý. Ba định thế Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu được gọi gọn là Troika. Từ haircut trong tài chính là tỷ lệ chiết khấu – một tài sản đem đi làm vật thế chấp ở ngân hàng thì thường được định giá thấp hơn giá trị thị trường của nó, khoảng trừ lùi so với giá trị thị trường đó gọi là haircut. Ở đây haircut chắc mọi người cũng đoán được – là mức thuế đánh lên tiền gởi ngân hàng. Năm ngoái dân nắm giữ trái phiếu Hy Lạp cũng chịu thiệt thòi đến 75% giá trị trái phiếu – tức “a 75 percent haircut” – nghe như bị vặt lông chứ không chỉ là hớt tóc!
Thỏa thuận nói ở tít trên dẫn đến hậu quả: “One banking chain goes to the wall, and major clients, who include many Russians, will take a giant hit”. Nghe go to the wall giống như “dựa cột” (bị xử bắn) nhưng không phải. Go to the wall bình thường là liều hết mình (This is a very important matter and I will go to the wall if necessary), còn khi nói đến doanh nghiệp thì mang nghĩa sụp tiệm (After nine months of massive losses, the company finally went to the wall). Ngân hàng goes to the wall lần này là Popular Bank of Cyprus (Laiki Bank), ngân hàng lớn thứ nhì Cyprus.
Với tuyên bố về ngân hàng lớn nhất: “Bank of Cyprus needs to be recapitalized and the contribution to this recapitalization must come, inevitably, from senior bondholders, junior bondholders and shareholders” thì từ đáng chú ý là senior bondholder. Một doanh nghiệp hay ngân hàng phát hành trái phiếu thường đưa ra loại trái phiếu được ưu tiên chi trả trước nếu doanh nghiệp gặp khó khăn, loại trái phiếu này gọi là senior bond, người nắm giữ chúng là senior bondholders. Loại junior bond không được ưu tiên như thế nên rủi ro cao hơn và lãi suất cũng cao hơn. Trong trường hợp này senior hay junior gì cũng chịu thiệt hết.
Đáng chú ý là các báo, dù là báo chuyên về kinh doanh như Forbes, khi miêu tả hệ thống ngân hàng của Cyprus dùng từ rất đơn giản: “The tiny island’s financial sector is, indeed, enormous—it’s roughly eight times its yearly economic output”. Câu này mà dịch ra tiếng Việt đúng kiểu sẽ trở thành: Tổng tài sản của toàn bộ các ngân hàng ở đảo quốc bé nhỏ này là cực lớn – khoảng bằng 8 lần GDP. Hèn gì văn báo chí kinh tế Việt Nam khô như ngói.
Nếu tạm thời quên chuyện tiếng Anh, chúng ta dễ bị sốc khi thấy người nào lỡ gởi tiền vào ngân hàng Laiki trên 100.000 euro nay có khả năng mất trắng. “Another €4.2 billion worth of uninsured deposits would be placed into a “bad bank”, to be disposed of, with no certainty that big depositors will get any money back”. Nghe chuyện “to be disposed of” – xử lý, thanh lý tức là mất tiền rồi.
Riêng câu sau, có lẽ cần giải thích nhiều hơn: “It is to be restructured severely by wiping out shareholders and bailing in bondholders, both junior and senior”. Chúng ta thường thấy từ bail out là giải cứu, một chuyện gây bức xúc ở người dân trả thuế thấy tiền bị đem đi cứu ngân hàng vô tội vạ. Từ đó nảy sinh khái niệm bail in – yêu cầu người nắm giữ trái phiếu ngân hàng phải chịu một mức thiệt hại nào đó (còn cổ đông thì đương nhiên đã chịu mất trắng) trước khi dùng ngân sách để cứu. Đây là đang nói về số phận ngân hàng lớn nhất Cyprus – đúng như câu ở trên. “Uninsured depositors would probably incur haircuts of the order of 35%” – từ haircut bây giờ có lẽ không còn gây thắc mắc nữa (còn of the order of là khoảng chừng).
Câu trên là từ tờ the Economist, tờ này dùng từ rất hình ảnh: “The IMF had suggested winding down both Laiki and Bank of Cyprus and splitting them into good and bad banks. Now Mr Anastasiades has salvaged the shell of the Bank of Cyprus, but at the cost of encumbering it with bad assets”. Đúng là Bank of Cyprus sẽ chỉ còn cái vỏ mà lại phải gánh chịu tài sản xấu của Laiki.
Phải nói là nếu không theo dõi thường xuyên sẽ khó hiểu hết các bài báo trên tờ này. Ví dụ câu “The scale of the bail-in that will be required to bring it to the target capital-ratio of 9% remains unclear” đòi hỏi phải hiểu ý nghĩa của từ bail-in nói trên dù cụm từ capital-ratio thì đã quen thuộc, nhất là khi viết đầy đủ ra thành capital adequacy ratio.
Dù sao số phận của Cyprus coi như xong - Some sources in the troika tentatively estimate that GDP will shrink by about 10% before any hope of recovery – rõ ràng bộ ba nói ở đầu bài biết rõ ép Cyprus như thế thì kinh tế Cyprus sẽ suy sụp nặng nhưng họ vẫn làm.
Thế nhưng Bộ trưởng Tài chính Pháp vẫn biện giải: “To all those who say that we are strangling an entire people ... Cyprus is a casino economy that was on the brink of bankruptcy”. Gọi Cyprus là một casino economy ý nói nơi đây đã bị biến thành thiên đường tài chính cho giới tài phiệt rửa tiền rồi giới ngân hàng Cyprus đem tiền đầu tư đầy rủi ro vào Hy Lạp.
Có lẽ kết luận của một người dân Cyprus là xác đáng hơn cả: “It’s like you have cancer and instead of treating the patient, you kill him. And then you say the problem is solved.” Vì thế chuyện dài số phận đồng euro còn chưa xong, có lẽ sẽ sớm có một Cyprus khác.


Sunday, September 18, 2011

Chuyện chữ & nghĩa - 2

Khi tác giả chơi chữ

Khi viết về những vấn đề kinh tế, để tránh khô khan, nhiều tác giả áp dụng lối viết hình tượng, chơi chữ để nhấn mạnh ý chính và gây ấn tượng với người đọc. Với các trường hợp này người đang học tiếng Anh sẽ gặp khó khăn nhưng vượt qua được cửa ải này, chúng ta sẽ có dịp thưởng thức các bài viết về kinh tế như đang đọc một tác phẩm văn học.

Ví dụ, khi nói đến sự suy yếu của nền kinh tế Nhật Bản, có người viết: “Some people said Japan was down for the count, and that was obviously a distorted view.” Trong thi đấu quyền Anh, khi có một võ sĩ bị đánh ngã xuống sàn, trọng tài bắt đầu đếm. Nếu đếm đến 10 mà võ sĩ này không dậy được thì coi như bị nốc ao. Như vậy câu này buộc ta liên tưởng đến hình ảnh nước Nhật như một võ sĩ trên sàn đấu sắp bị thua đến nơi.

Một câu khác dùng từ rất hình tượng: “Japan’s banks were tallying bad loans of more than $300 billion, dwarfing America’s own housing-and-loan crisis.” Nếu tra từ điển bạn chỉ hiểu từ dwarf là người lùn, động từ dwarf là làm cho có vẻ nhỏ lại. Nhưng cả câu muốn nói những khoản nợ xấu của các ngân hàng Nhật Bản còn lớn hơn nhiều so với các khoản thiệt hại do xì căng đan cho vay tiền mua nhà ở Mỹ gây ra.

Loại từ này và các dùng này khá phổ biến, nếu không cảnh giác dễ hiểu sai. Câu “Honda was told to put brakes on new car prices” dễ bị hiểu nhầm là hãng Honda bị buộc phải gắn loại thắng (phanh) mới như brakes ở đây được dùng theo kiểu chơi chữ là tạm hoãn (tạm hoãn tăng giá xe).

Hay trong câu “It seemed Japan Inc. was a façade, the economic miracle was a myth and the Pacific Century would last a decade” – Japan Inc. là cách chơi chữ khá nhàm vì được dùng nhiều quá nên trở thành sáo ngữ. Có thời người ta xem cả nước Nhật như một doanh nghiệp khổng lồ, sản xuất hàng hóa và đưa chúng tràn ngập thế giới. Đến nỗi nhiều nhà kinh tế xem thế kỷ này là thế kỷ của [nền kinh tế] Thái Bình Dương. Nhưng vì năm năm qua, Nhật Bản gặp nhiều khó khăn nên hiện tượng đó đã bị phá vỡ như một huyền thoại chỉ kéo dài được một thập niên.

Gần đây kinh tế Nhật Bản đã có chiều hướng phục hồi nên tác giả viết tiếp: “Now the wounded samurai is showing sign of life.Samurai là võ sĩ đạo nhưng được dùng ở đây như kiểu nước Nhật là một cường quốc kinh tế. “Shoppers are on the prowl again.Prowl là đi lang thang, thường dùng để chỉ thú đi tìm mồi như cả thành ngữ on the prowl ở đây lại dùng với shoppers nên mang hình tượng đi mua sắm, đi săn hàng trong cửa hiệu.

Sau đó tác giả hỏi: “Is Japan back and badder than ever?” Có bao giờ bạn thấy từ bad (xấu xa) dùng thể so sánh là badder chứ không phải là worse chưa? Thật tuyệt! Nếu dùng từ worse câu đó sẽ vô nghĩa, kinh tế hồi phục sao lại xấu xa thêm? Để diễn đạt ý “Phải chăng nước Nhật đã trở lại [độc chiếm thị trường] và càng mạnh hơn bao giờ hết [trong vai trò lấn chiếm thị phần nước Mỹ]” tác giả viết rất gọn và làm các nhà ngữ pháp chưng hửng rồi e phải gật gù khen hay, ghi vào một quy tắc ngoại lệ nữa. Thật ra, trong ngôn ngữ tiếng lóng của Mỹ có từ bad (với thể so sánh badder, baddest) mang nghĩa rất tốt, tài giỏi. Chứng kiến một cầu thủ thi đấu xuất sắc nếu cổ động viên hét lên, “You’re bad” là họ đang khen đấy.

Có khi việc chơi chữ thể hiện bằng ý chứ không bằng lời. Một bức tranh châm biếm vẽ cảnh Bob Dole, ứng cử viên chức tổng thống Mỹ của đảng Cộng hòa, gọi điện cho Boris Yeltsin với lời chú thích duy nhất, “Could I borrow Lebed for a few days in November, Boris?” Nếu bạn biết bối cảnh vòng hai cuộc bỏ phiếu bầu tổng thống Nga khi Yeltsin thắng cử nhờ kéo tướng Lebed, người về ba trong vòng một về phe mình, bạn sẽ thấy tác giả chơi chữ với ý rất rõ là Dole cần một nhân vật như Lebed mới hy vọng thắng cử trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vào năm 1996.

Cập nhật: Các ví dụ trong bài trên được viết từ năm 1997 nay đọc thấy khá xa lạ. Nhưng việc các tác giả chơi chữ, làm khó người học tiếng Anh lúc nào cũng vậy. Ví dụ, một tít báo trên tờ Economist viết: “Banking regulation – Capital punishment”. Bình thường capital punishment là hình phạt tử hình nhưng trong câu này ý muốn nói đến những quy định mới mà giới ngân hàng sẽ phải tuân thủ, sẽ ảnh hưởng đến cách sử dụng nguồn vốn và lợi nhuận của họ.

Saturday, September 10, 2011

Chuyện chữ & nghĩa - 1

Chuyện chữ & nghĩa - 1

Giới thiệu: Hiện nay trên mạng thấy có lưu truyền cuốn sách dạng ebook “Tiếng Anh theo dòng thời sự” của tôi. Rất tiếc đây là ấn bản ebook mà một người nào đó làm vội, chỉ lấy mấy chục bài từng đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn rồi gom lại thành sách. Thật ra, về tiếng Anh, tôi có viết ba cuốn: Chuyện chữ & nghĩa, NXB Trẻ năm 1997; Tiếng Anh lý thú, NXB TPHCM năm 2000 và Tiếng Anh theo dòng thời sự, NXB Trẻ năm 2008. Tất cả ba ấn bản này đã không còn ngoài nhà sách nữa, nhiều bạn bè đòi tặng cũng đành chịu. Nay tôi sẽ lần lượt đưa lên đây các bài trong ba cuốn này và hy vọng có lúc nào rảnh sẽ làm thành một cuốn ebook đàng hoàng, chính thức.

Cái gì khó nhất

Đối với câu hỏi, học tiếng Anh cái gì là khó nhất, phần lớn cho đó là cách đọc, cách phát âm. Một ít người nói ngữ pháp tiếng Anh rắc rối. Theo tôi, khó nhất với người Việt chúng ta khi học tiếng Anh là cách dùng từ.

Bạn thử nghĩ mà coi, ai đời từ company người nào đã học qua tiếng Anh đều biết là công ty. Thế nhưng xem phim, nhất là loại phim hình sự cảnh hai nhân vật ngồi trên xe bỗng một người nhìn vào kính chiếu hậu thốt lên: “We’ve got company” thì từ company qua cách dùng trong tình huống này buộc ta phải hiểu là cái đuôi (Có kẻ theo dõi chúng ta đấy). Rồi company trong câu We’re judged by the company we keep lại có nghĩa bạn bè – Người ta sẽ xét đoán bạn qua bạn bè mà bạn đang giao du.

Tuyệt nhất là một quảng cáo sử dụng lối chơi chữ, gán luôn cho company cả hai nghĩa trên. Một công ty sản xuất bao bì viết: We aren’t just known for our company. We’re known for the company we keep. Từ company đầu tiên có nghĩa là tên tuổi công ty còn company trong câu sau vừa có nghĩa khách hàng (sử dụng bao bì của mình) vừa là các công ty khác. Chúng tôi nổi tiếng không chỉ nhờ tên tuổi công ty. Người ta còn biết đến chúng tôi qua các công ty khách hàng của chúng tôi nữa.

Ở một mức độ khó hơn, ví dụ rather fairly đều dịch là khá nhưng khi dùng trong văn cảnh, chúng lại mang nghĩa khác xa nhau. We’re having rather cold weather for OctoberTháng 10 mà thời tiết như thế này thì hơi lạnh. Như vậy rather mang ý nghĩa chê, thất vọng. Trong khi đó fairly mang ý khen. Oh, yeah, he’s fairly tall for his age. Cho nên nếu một em học sinh đọc xong một bài tập và nói, “Oh, it’s fairly easy” sẽ khác với một em khác cho rằng bài tập đó rather easy. Có thể nói em đầu khiêm tốn hơn và em thứ nhì hơi chủ quan!

Phần lớn những trường hợp cách dùng từ ảnh hưởng đến nghĩa câu văn đều được giải thích rõ trong các cuốn sách ngữ pháp biên soạn nghiêm chỉnh. Như từ musthave to. Ở mức sơ cấp, sách giáo khoa sẽ cho hai từ này là đồng nghĩa; đến mức độ cao hơn, sách sẽ cho những ví dụ để cho người học thấy sự khác nhau giữa hai từ. Ví dụ dễ nhớ nhất là trường hợp một anh chàng đến nhà người yêu chơi, một lúc sau, nhìn đồng hồ và nói, “I’m afraid I have to go now.” (vì hoàn cảnh khách quan như bận việc mà phải đi chứ anh ta chưa muốn về chút nào). Ngược lại nếu anh ta nói, “I must go now.”là anh này muốn tỏ ý không muốn ở chơi nữa. Một cô thấy một kiểu áo mới đẹp quá nên nói, “I must save money to buy this” (quyết định phải để dành tiền là nảy sinh ngay lúc đó). Nhưng một cô khác khi có người hỏi vì sao phải tằn tiện đến thế mới giải thích: “I have to save money to go to university.” (quyết định dành dụm tiền để vào đại học là chuyện có chủ ý từ lâu.)

Các cuốn từ điển biên soạn công phu đều có một phần gọi là Usage để ghi rõ cách sử dụng từ đó, khác biệt với những từ tương tự như thế nào. Ví dụ hai từ đều có nghĩa là liên tục – continuouscontinual. Nhưng continual loss of power during the storm có nghĩa là mất điện liên tục suốt trận bão (cứ có điện rồi mất điện miết). Còn continuous loss of power during the storm là mất điện hẳn trong suốt trận bão.

Ngược lại có rất nhiều trường hợp sự tinh tế trong cách dùng phải qua thực tế mới phát hiện ra. Ví dụ ai cũng biết housewife là người nội trợ như đàn bà Anh, Mỹ rất ghét từ này, họ cho rằng nó hạ thấp vai trò của phụ nữ và thích dùng từ homemaker hơn. Hoặc có nhiều từ đổi nghĩa tùy văn cảnh được dùng. It’s an inside job là gì bạn có thể đoán được không? Một công ty bị mất trộm, nếu có người tuyên bố như trên, ý anh ta nói có tay trong đấy.

Một điều lạ là loại từ tiếng Anh đơn giản thường gây khó khăn cho người học hơn từ khó vì từ đơn giản đôi lúc được dùng theo nghĩa mới, làm người nghe chủ quan, cứ hiểu theo nghĩa thường gặp. Ai từng học qua tiếng Anh đều biết từ good. Nhưng khi nó được dùng trong câu sau thì phải dè chừng: “I’m moving to Europe for good”for good là thành ngữ mãi mãi, đi luôn. Ngay cả những cụm từ xem chừng vô hại như as good as tưởng đâu là thể so sánh bằng nhau như thật ra chúng mang nghĩa gần như, hầu như. The $2,000 motorbike is as good as new – chiếc mô tô 2.000 đô kia gần như là xe mới. Hay cũng từ good dùng trong câu này chỉ tương đương như very: I’ll do it when I’m good and ready.

Như vậy, người học hay sử dụng tiếng Anh cần tạo cho mình thói quen cảnh giác trước các từ đã học nhưng khi dùng trong câu không còn bóng dáng nghĩa quen thuộc nữa. Đọc câu: “A top-of-the-range Yamaha two-stroke will be yours for the best part of $6,000.” bạn phải mạnh dạn xem lại từ điển loại tốt tìm thử best còn có nghĩa gì khác để hiểu đúng cả câu. Bạn sẽ học được thêm nghĩa mới của cụm từ for the best part ofmost:Một chiếc xe Yamaha hai thì loại xịn nhất giá gần cả 6.000 đô.

Lấy một ví dụ đơn giản nhất: nghe một ai thốt lên câu “Way to go!” bạn sẽ nghĩ nó quá dễ và không cần quan tâm, rằng way là con đường, to go là đi, vậy way to go là đi theo đường này (!!!) hay khá hơn, bạn có thể gán cho nó một nghĩa đúng là có dùng trong thực tế: đường còn xa, còn lâu mới xong.

Nhưng thật ra, way to go ở đây là một câu tán thưởng, “Chà, giỏi quá!” Một nước cờ hay, một giải pháp tức thời, một cú banh tuyệt vời, tất cả đều có thể tán thưởng bằng câu “Way to go!”